Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Với các tướng lĩnh QĐ


Tình bạn với các tướng lĩnh

Trần Kháng Chiến



            Cha tôi có 14 năm quân ngũ. Những năm tháng đó ông có nhiều đồng đội thân thiết. Là đứa con  lớn trong gia đình tôi may mắn được chứng kiến, được nghe lại nhiều chuyện về quan hệ gần gũi của ông với các tướng  lĩnh, cán bộ cao cấp lớp đầu tiên.



            Với Trung tướng Nguyễn Bình

Người mà cha tôi quen biết sớm nhất trong số những tướng lĩnh là Trung tướng Nguyễn Bình. Tên thật của ông là Nguyễn Phương Thảo, người phố Bần, Hưng Yên. Ông tham gia Việt Nam Quốc dân đảng. Năm 1930, ông cùng nhiều đảng viên Quốc dân đảng như Trần Huy Liệu, Trần Xuân Độ… bị bắt, bị kết án. Cha tôi biết ông trong những năm cùng ngồi tù Côn Đảo. Cha tôi kể lại  rằng giữa các tù nhân Cộng sản và Quốc dân đảng có những bất đồng về quan điểm tiến hành cách mạng. Vì có những bất đồng nên  hai “khối” tù chính trị hay tranh luận. Do vạy cha tôi cùng các tù Cộng sản có quan hệ rất cởi mở với ông Thảo. Theo cha tôi, ông Thảo là người khí phách  ngang tàng, ngay thẳng. Tại Côn Đảo, ông Thảo có ảnh hưởng lớn với cánh tù thường phạm, nhất là cánh dân “anh chị” Lục tỉnh.


Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông Nguyễn Bình đã chỉ huy lực lượng vũ trang cướp chính quyền ở thị xã Quảng Yên (Hải Dương). Tối 19 tháng 8, chính quyền cách mạng lâm thời Bắc Bộ được thành lập. Ngày 21 tháng 8, tại Bắc Bộ phủ, trong lúc Uỷ ban Cách mạng lâm thời đang họp thì được bảo vệ báo vào “có một vị mang súng lục, đeo kiếm, đi ủng cao, mặc quân phục kha-ki,  trông rất oai vệ, xưng là “Nguyễn Bình, Tư lệnh Đệ tứ Chiến khu Đông Triều”, đến báo cáo Trung ương về việc  Việt Minh  đã giành được chính quyền tại Hải Dương”. Uỷ ban  tạm ngưng cuộc họp, mời khách vào trong Phủ. Cha tôi và ông Nguyễn Bình  nhận ngay ra nhau, tay bắt mặt mừng sau   chục năm xa cách. Cha tôi thông báo rằng Trung ương sắp về Hà Nội, đề nghị ông Bình cho bộ đội về gấp Hải Phòng, tăng cường sức mạnh cho Việt Minh giành chính quyền. Thường vụ Xứ ủy cử ngay đồng chí Vũ Quốc Uy xuống Hải Phòng. Lực lượng vũ trang Chiến khu Đông Triều đã có mặt  kịp thời cùng nhân dân  thành phố Cảng giành chính quyền vào ngày 23  tháng 8 năm 1945. 

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, nhân dân Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Hồ Chủ tịch  trực tiếp cử Nguyễn Bình vào Nam Bộ, chỉ huy lực lượng vũ trang.



Với Tướng Văn Tiến Dũng

Cha tôi và chú Văn Tiến Dũng cùng tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ. Họ quen biết nhau vào đầu năm 1943, tại cuộc họp Xứ ủy do ông Hạ Bá Cang triệu tập. Cuộc đời   cha tôi và chú Dũng từng gắn với chốn tu hành. Cha tôi theo học tại Chủng viện La-tinh Hoàng Nguyên từ năm 1925. Còn chú Dũng sau khi thoát ngục Sơn La năm 1942, bị mất liên lạc với tổ chức, đã xuống tóc đi tu, trụ trì một ngôi chùa nhỏ tại  Vân Đình, Hà Đông. Cha tôi bị mật thám bắt cuối năm 1943, chú Dũng bị bắt tháng 8 năm 1944 khi là Bí thư  Xứ ủy. Chú Dũng vượt ngục Bắc Ninh tháng 10 năm 1944, cha tôi vượt ngục Hỏa lò tháng 3 năm 1945. Tháng 5 năm ấy, cha tôi  gặp lại chú Dũng, khi chú về thay cha tôi phụ trách Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh. Sau Cách mạnh tháng Tám, cả hai ông được điều động vào quân đội. Tháng 4 năm 1946, cha tôi và ông Hoàng Đạo Thúy đưa Trường Võ bị Lục quân Trần Quốc Tuấn về đóng tại thị xã Sơn Tây, thuộc địa bàn Chiến khu II mà chú Dũng là Tư lệnh. Với quan hệ thân thiết từ thời bí mật, cha tôi tranh thủ sự giúp đỡ của Tư lệnh Chiến khu II với nhà trường. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, chú Dũng là Cục trưởng Cục Chính trị thì cha tôi được điều động về làm Trưởng phòng Cán bộ - Kiểm tra của Cục; cả hai ông đều là Phó bí thư Quân ủy. Như vậy  trong những  năm đầu kháng chiến, cha tôi và chú Dũng có quan hệ công tác rất gần gũi.

Giữa cha mẹ  tôi và cô Kỳ, chú Dũng  có mối quan hệ bạn bè thân tình. Năm 1950, khi chú Dũng nhận nhiệm vụ xuống Liên khu III, vào địch hậu làm Đại đoàn trưởng  Đại đoàn 320, một mình cô Kỳ cùng hai con ở lại Chiến khu Việt Bắc. Cha tôi năm đó nhận nhiệm vụ về Trường Lục quân Việt Nam nên đã để lại cho gia đình cô chú ngôi nhà cùng ruộng vườn khai phá trong mấy năm để cô Kỳ ổn định cuộc sống và chú Dũng an tâm nơi chiến trường. Sự chia sẻ  ân tình giữa những người đồng đội được cô chú nhắc lại mỗi khi chúng tôi có dịp đến thăm.

            Giáp Tết 1967, cha tôi về nước công tác. Ông bị ốm phải nằm bệnh viện. Ông nhắn chú Dũng xin phép cho tôi từ đơn vị về Hà Nội, để cha con gặp nhau. Chú Dũng đã điện cho Bộ tư lệnh Hải quân cho phép tôi về. Tôi được  gặp cha vào ngày 2 tết. Đó cũng là lần cuối cùng tôi được gần người cha kính yêu.

Sau khi cha tôi mất, cô Kỳ, chú Dũng luôn dành cho gia đình tôi sự quan tâm, giúp đỡ chu đáo.

           

            Với Tướng Lê Liêm

Cha mẹ tôi có quan hệ thân thiết với gia đình chú Lê Liêm, cô Lê Thu Trà từ thời kỳ bí mật. Chú Liêm người Hà Đông, từng bị tù ở Sơn La rồi cùng cha tôi tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ. Chú lãnh đạo Tổng  khởi nghĩa ở  Thái Bình, Hưng Yên và là cấp trên trực tiếp của mẹ tôi. Trong kháng chiến chống Pháp, chú là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chủ nhiệm chính trị Mặt trận Điện Biên Phủ. Hoà bình lập lại, hai gia đình chúng tôi là láng giềng. Rồi chú Liêm chuyển sang Bộ Văn hóa, cha tôi sang Bộ Ngoại giao. Khi có dịp gặp nhau, hai người trao đổi rất sôi nổi về công tác văn hóa, công tác ngoại giao và những kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác mới. Xuân Tân Sửu (1962), cha mẹ tôi và cô chú cùng nhau về thăm các gia đình cơ sở cách mạng tại Ninh Bình, Hà Nam từng nuôi nấng, bảo vệ họ thời kỳ bí mật. Tại Đại hội Đảng lần thứ III, cha tôi và chú  cùng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.

Chú Lê Liêm là con người sôi nổi, nhiệt tình, có trình độ, có trách nhiệm, sống  nghĩa tình được bạn bè,  đồng chí quý trọng. Với chúng tôi chú là một nhân cách lớn. Chú chuyển ra ngoài trước khi có đợt phong quân hàm năm 1958, tuy vậy thế hệ cán bộ thời đó vẫn trìu mến gọi chú là “Tướng Lê Liêm”.



Với Cụ Hoàng Đạo Thúy và “ông con rể” Tạ Quang Bửu

Tháng 4 năm 1946, Hồ Chủ tịch ký sắc  lệnh thành lập Trường Võ bị Lục quân Trần Quốc Tuấn. Nhà văn hóa, nhà giáo, lãnh tụ Hướng đạo sinh Việt Nam Hoàng Đạo Thúy được cử làm Giám đốc, cha tôi làm Phó giám đốc - Chính  trị ủy viên. Cha tôi và cụ Hoàng Đạo Thúy rất khác nhau về hoàn cảnh xuất thân, song lại rất gắn bó với nhau vì cùng gánh vác một nhiệm vụ nặng nề do chính Cụ Hồ giao - đào tạo lớp cán bộ quân sự mới cho  Nhà nuớc non trẻ vừa giành được độc lập. Sự đoàn kết cùng gánh vác trách nhiệm của một chiến sỹ cách mạng vào sống ra chết như cha tôi với một đại trí thức như ông Hoàng Đạo Thúy  được các cán bộ của  nhà trường coi như tấm gương trong việc thực hiện đường lối Đại đoàn kết dân tộc của Cụ Hồ. Cụ Hoàng Đạo Thúy trong những năm cuối đời luôn nói với các cựu học viên  Trần Quốc Tuấn rằng: “Anh Bình là người bạn tri kỷ nhất của đời tôi!”. Năm 1958, ông Hoàng Đạo Thúy được  Nhà nước phong quân hàm Đại tá.

Ông Tạ Quang Bửu, một nhà khoa học lớn, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và là con rể  cụ Hoàng Đạo Thúy. Cha tôi và ông Bửu có mối quan hệ thân tình. Khi quân đội bước vào giai đoạn xây dựng chính quy, hiện đại, cha tôi thường gặp ông Bửu để trao đổi, hiểu thấu đáo các vấn đề  của Cách mạng khoa học kỹ thuật. Đối với cha tôi  đó là lĩnh vực mới lạ, cần học hỏi. Ông  là người thực sự cầu thị, việc học tập nâng cao tri thức qua bạn bè (vốn là các trí thức lớn) là việc làm thường xuyên. Tôi từng được chứng kiến những lần hai người ngồi nói chuyện rất lâu, lúc chia tay vẫn còn lưu luyến.

Không chỉ với ông Tạ Quang Bửu mà cha tôi còn có mối quan hệ thân thiết, cởi mở, chân thành với các trí thức lớn như Bác sỹ Trần Duy Hưng, Bác sĩ Tôn Thất Tùng, Bác sĩ Nguyễn  Trinh Cơ, hay các nhân sĩ Bồ Xuân Luật, Trương Công Quyền…



Với Luỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn

Cha tôi quen biết ông Nguyễn Sơn  sau Cách mạng tháng Tám, khi ông mới ở Trung Quốc về nước. Năm 1947, ông là Giám đốc Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn mà trước đó cha tôi phụ trách. Năm 1948, cha tôi vào Quân khu IV công tác, gặp ông Sơn tại Bộ tư lệnh quân khu, đóng ở Thanh Hóa. Ông Sơn đã tâm sự với cha tôi như người bạn thân lâu ngày găp lại. Cha tôi kể rằng ông Nguyễn Sơn rất thông minh, có tài diễn thuyết, có tri thức sâu rộng cả về văn hóa, xã hội, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Anh và là một vị tướng có tài, có kinh nghiệm. Cha tôi rất thú vị khi được ông trao đổi về việc tổ chức tập trận cho bộ đội - một công việc hết sức mới mẻ đối với quân đội non trẻ của chúng ta. Năm 1950, theo thỏa thuận của lãnh đạo hai nước, ông Nguyễn Sơn trở về Trung Quốc. Năm 1955, ông được Nhà nước Trung Quốc phong quân hàm Thiếu tướng.  Năm 1954, Trường Lục quân Việt Nam  đóng tại thành phố Quế Lâm đã đón ông Nguyễn  Sơn về thăm. Ông dành nhiều thời gian nói chuyện với cán bộ, học viên, tiếp xúc với những chiến sỹ ưu tú từ khắp các chiến trường được chọn về học khóa IX. Trong dịp này ông mua cho bọn trẻ con nhà tôi một chiếc xe ôtô Jeep - đồ chơi bằng gỗ, chạy được nhờ có bàn đạp, có thể chở được ba đứa. Chiếc xe đó được gia đình giữ đến những năm sáu mươi.

Trong thời gian chiến đấu ở Trung Quốc, ông Nguyễn Sơn đã xây dựng gia đình với một  nữ đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc - bà Trần Kiếm Qua. Ông bà có hai người con là Tiểu Phong và Tiểu Việt. Khi cha tôi làm Đại sứ đã bắc chiếc cầu để Tiểu Phong và Tiểu Việt tìm tới gia đình ở Việt Nam. Chuyện này được bà Trần Kiếm Qua kể lại trong cuốn sách “Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương”. Chúng tôi rất cảm động khi được đọc cuốn sách này.



Với ông Trần Đăng Ninh - bạn tù Hỏa Lò

Cha tôi bị giam tại nhà tù Hỏa Lò cùng Bí thư Xứ ủy  Trần Đăng Ninh. Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào tối mùng 9 tháng 3 năm 1945, cha tôi cùng ông  Ninh và nhiều tù chính trị đã vượt ngục trở về với Đảng. Trong tù, hai ông là hạt nhân đoàn kết, tích cực tham gia tổ chức lên lớp  lý luận, truyền đạt kinh nghiệm cho anh em tù chính trị. Sau cách mạng, ông Ninh tham gia Trung ương, là Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp. Ông là một cán bộ gương mẫu, luôn nêu cao tấm gương  sáng cho cán bộ, chiến sỹ về tác phong cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Hè năm 1954, tôi được theo cha đến thăm ông đang chữa bệnh tại Nam Ninh. Tôi nhớ như in hình ảnh hai người nắm tay nhau không rời,  nói chuyện rất lâu. Khi ra về cha tôi đã rơi nước mắt vì biết bệnh tình cuả người bạn tù khó qua khỏi.  Ông Ninh mất năm 1955. Toàn quân để tang ông. Cha tôi cùng toàn thể cán bộ, chiến sỹ, học viên Trường Lục quân Việt Nam đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu ông - một cán bộ chỉ huy ưu tú cuả Quân đội Nhân dân Việt Nam, một chiến sỹ Cộng sản kiên cường.

Tại Nghia trang Mai Dịch Hà Nội, cha tôi và ông Trần Đăng Ninh  được an táng cạnh nhau.



Với Thiếu tướng Đặng Kim Giang

            Ông Đặng Kim Giang cùng cha tôi tham gia Xứ uỷ, ông phụ trách tỉnh Hà Đông. Những ngày tháng 8 năm 1945, cha tôi và ông luôn bên nhau để bàn bạc, ra những quyết định kịp thời cho cuộc Tổng khởi nghĩa tại Hà Đông vào ngày 20 tháng 8. Trong kháng chiến ông là Phó chủ nhiêm Tổng cục Cung cấp. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ là Chủ nhiệm Hậu cần, ông luôn có mặt trên mọi nẻo đường để kiểm tra, đốc thúc việc bảo đảm lương thực, đạn dược cho bộ đội. Năm 1958 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Cha tôi luôn khen ông Giang là người ngay thẳng, bộc trực, rất tận tâm trách nhiệm. Khi cha tôi đi làm Đại sứ thì ông về phụ trách Bộ Nông trường. Hồi đó Trung Quốc giúp ta xây dựng một số nông  trường nên ông và cha tôi thường gặp nhau trao đổi. Tôi nhớ ông có tác phong rất bình dân, khi trò chuyện với cha tôi, ông hay khoanh chân  lên ghế và nói rất sôi nổi về sự nghiệp phát triển nông trường quốc doanh, về cả giống lúa, giống ong, giống gia súc mới cùng  kỹ thuật canh tác… Năm 1961, ông mời cha tôi đi nghỉ kết hợp làm việc hai tuần tại Nông trường Hải Hâu. Khi về cha tôi cho biết với sự nỗ lực cuả ông Giang các hạng mục do Trung Quốc giúp đều được triển khai đúng tiến độ, khai thác có hiệu quả, mang lại những giá trị kinh tế, xã hội đáng kể.

            Nhân kỷ niệm 10 năm Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 1949-1959, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Lưu Chủ tịch đã mời Hồ Chủ tịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang dự  lễ Quốc khánh. Thiếu tướng Đặng Kim Giang được vinh dự tháp tùng. Cha tôi là Đại sứ nên cũng có mặt tại sân bay trong buổi lễ đón đoàn. Bắc Kinh những ngày cuối tháng 9 đã vào thu, trời se lạnh. Hôm đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc có Lưu Thiếu Kỳ, Tống Khánh Linh, Đổng Tất Võ, Lâm Bưu đã ra đón đoàn. Chúng tôi còn lưu giữ bức ảnh này và coi như một báu vật của gia đình.



            Tình bạn với Tướng Hoàng Văn Thái

Cha tôi và ông Hoàng Văn Thái quen biết nhau sau Cách mạng tháng Tám, khi cha tôi thay ông tiếp nhận Trường Quân chính Việt Nam. Trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng, ông luôn  dành cho nhà trường  sự giúp đỡ kịp thời trong hoàn cảnh rất khó khăn. Ông tham gia cách mạng từ năm 1936. Năm 1940, ông là một trong 20 thanh niên Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ai Quốc gửi sang học tại Trường  Quân sự Quảng Tây của Quốc dân đảng. Năm 1944, ông là một trong 34 chiến sỹ cuả Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Tham mưu trưởng chiến dịch, có bí danh là Thành. Cái tên này đã trở nên thân quen, gần gũi với nhiều cán bộ, chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ.

Trong kháng chiến và sau ngày hòa bình lập lại,  hai gia đình  có thời gian dài sống cạnh nhau. Mẹ tôi rất thân cô Loan (vợ ông), một  trong hai nữ chiến sỹ  đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ngày vừa nghe tin ông mất, mẹ tôi đến nhà riêng chia buồn. Bị sốc nặng vì sự ra đi đột ngột của chồng, cô Loan suy sụp không thể gượng dậy. Thông cảm với tình cảnh của bạn, mẹ tôi nắm chặt tay cô an ủi, động viên: “Hai mươi năm trước mình cũng phải gánh chịu những mất mát,  đau đớn như Loan lúc này. Nhưng phải nén đau thương vì còn các con!”. 



Với gia đình Trung tướng Trần Độ

Năm 1939 khi cha tôi hoạt động tại huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam thì cô Nguyễn Thị Hằng là giao thông Xứ ủy, thường chuyển tài liệu, chỉ thị của ông Hoàng Quốc Việt cho cha tôi. Sau Cách mạng tháng Tám, cô xây dựng gia đình với và chú Trần Độ. Trong kháng chiến chống Pháp, hai gia đình sống gần nhau trên Việt Bắc.

Chú Độ là dân Thái Bình, tính tình hóm hỉnh, có tài kể chuyện, viết văn. Có lần chúng tôi hỏi về lần đầu tiên gặp cha tôi, chú cười  và chậm rãi nói: “Đó là lần chú vi phạm kỷ luật chiến trường, bị ông Bình - phụ trách kiểm tra của quân đội  - tuyên bố kỷ luật...”. Chú Độ là người thích chụp ảnh, gia đình tôi còn giữ được nhiều ảnh do chú chụp cho trong thời gian sống ở chiến khu.  Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, chú là Chính ủy Đại đoàn 312. Trong kháng chiến chống Mỹ, chú chiến đấu tại chiến trường Nam Bộ. Năm 1974 chú từ chiến trường trở ra Bắc, gia đình chú chuyển về số nhà 97 Trần Hưng Đạo. Từ đó hai gia đình lại trở thành láng giềng  tối  lửa tắt đèn có nhau.    

Có một điều thú vị: dân Thái Bình rất tự hào là quê hương sản sinh ra nhiều vị tướng lĩnh đầu tiên của quân đội như  Hoàng Văn Thái, Trần Độ, Đặng Kim Giang, Tạ Xuân Thu.



Với Thượng tướng Chu Văn Tấn

Năm 1940 khi là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam thì Xứ ủy chỉ thị cho cha tôi tiến  hành  hoạt động hưởng ứng Khởi nghĩa Bắc Sơn. Cha tôi cùng các đồng chí  của mình đã lập kế hoạch chiếm đồn binh Phủ Lý, nhưng việc không thành. Sau Cách mạng tháng Tám, cha tôi gặp ông Chu Văn Tấn - người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nổi tiếng này, người được gọi là “Hùm xám Bắc Sơn”. Cha tôi và ông Tấn  trở nên đôi bạn tri kỷ. Năm 1950, theo lệnh của Hồ Chủ tịch xử vụ án Trần Dụ Châu, Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án, Thiếu tướng Trần Tử Bình là Công tố ủy viên. Để phiên tòa tiến hành theo đúng các nguyên tắc pháp lý, ông Tấn, cha tôi cùng các cán bộ  quân đội được triệu tập tham dự phiên tòa phải tập trung cao độ trong một thời gian ngắn, lập được hồ sơ, lập được bản luận tội qua các chứng cứ, nhân chứng. Cho đến ngày hôm nay tinh thần của bản án vẫn còn nguyên giá trị chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới.

Thời kì bắt đầu chiến tranh phá hoại, biết ông Tấn thường phải vận động  đến các tỉnh vùng cao, ở đó không có điện để nghe tin tức, cha tôi đã dành tiền tiết kiệm của mình mua tặng ông chiếc radio Sony ba băng, bán dẫn, chạy pin.

Cha mẹ tôi luôn coi ông Tấn là hiện thân của tinh thần Đại đoàn kết dân tộc, biểu hiện lòng trung thành của các dân tộc Việt Bắc với cách mạng, với Bác Hồ.



Với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh

Tôi được đọc lá thư của ông Nguyễn Chí Thanh  gửi cho cha tôi cuối năm 1959 với nội dung: Quân ủy Trung ương có đề nghị phong quân hàm Trung tướng cho anh, nhưng Hồ Chủ tịch cho rằng anh đang làm công tác ngoại giao, chưa cần thiết. Để khi nào hết nhiệm kỳ Đại sứ, có nhu cầu thì sẽ tiến hành phong quân hàm. Sau này ngẫm lại mới thấy cha tôi và ông Thanh có một quan hệ rất thân tình. Trong lưu trữ của gia đình  chúng tôi còn giữ được một số ảnh cha tôi chụp chung với ông Thanh khi ông sang thăm Trung Quốc hay khi hai ông sang dự Đại hội Đảng Lao động Triều Tiên, đến thăm Bàn Môn Điếm.

Đối với cha mẹ tôi, ông  Thanh là con người Cộng sản gương mẫu. Khi ông được giao nhiệm vụ phụ trách mảng nông nghiệp, vì từng làm phu cao su ở Nam Bộ nên cha tôi hay bàn bạc với ông về trồng trọt rồi cùng rủ nhau đi thăm các hợp tác xã, nông trường. Lần đầu tiên chúng ta đưa máy cày xuống cày thử trên cánh đồng ruộng nước ở huyện Gia Lâm, tôi được cha cho đi cùng. Khi đến nơi đã thấy ông Thanh có mặt. Sau khi xem anh em công nhân cho máy cày hết cánh đồng, ông đã đặt nhiều câu hỏi cho các chuyên gia. Ông lo là máy cày này vẫn chưa thật phù hợp với ruộng nước, nếu triển khai cần phải có những cải tiến.

Tháng 2 năm 1967 khi cha tôi mất, từ chiến trường ra ông Thanh đã dự trọn vẹn  lễ tang và đưa cha tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi còn nhớ như  in nét mặt súc động, thương cảm của ông. Rồi tháng 7 năm đó,  toàn quân, toàn dân, trong đó có gia đình tôi, đau đớn khi nghe tin ông  qua đời.

* * *

Chúng tôi rất tự hào vì cha mẹ từng là bộ đội Cụ Hồ, tự hào vì  thời gian trong quân ngũ của ông bà có những người bạn, người đồng chí thân tình. Cũng từ cơ sở đó mà chúng tôi – thế hệ con cái – có mối quan hệ thân thiết với con cái của những đồng đội, những người bạn của cha mẹ chúng tôi.

      


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.