Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

Giác ngộ



Những năm học ở trường Quân sự, tuy nghịch ngầm nhưng do học tốt, tích cực tham gia hoạt động văn thể, sẵn sàng giúp đỡ đồng đội  nên vẫn được anh em và đơn vị tín nhiệm bầu “những 3 lần” là CSTĐ (thậm chí súyt được bầu là CSQT!).


Đến khi được giữ lại làm giáo viên, vì dạy tốt, tích cực hoạt động chung nên lại được bầu là CSTĐ. Những năm 1979-80 khi xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, đã có mặt đưa học viên đi phục vụ mặt trận, sau đó có mặt trong đội hình của khoa đi nghiên cứu, giúp đơn vị chiến đấu về thông tin liên lạc. Lần từ mặt trận Cao Bằng về, mấy anh em cùng thầy Lê Khôi ngồi trên chiếc xe chỉ huy UAZ do tài Mạnh lái với đầy máy móc suýt bị lũ cuốn khi vượt ngầm về xuôi.



Năm 1981, trong danh sách  “đào tạo nguồn” do Khoa Vô tuyến đề nghị, cử đi thi nghiên cứu sinh, có tên Trần Kiến Quốc. Vậy mà “trục trặc”. Anh Lê Khôi khi đó là chủ nhiệm khoa (lại là chỗ thân tình) đã “tiết lộ”: nghe ông Trì chính trị viên khoa nói, “trên bảo có vấn đề về lí lịch – gia đình thân TQ”(!). Nghĩ bụng, cả đời cha mẹ hy sinh cho cách mạng, cụ ông thì đã mất 14 năm nay. Vậy thì có vấn đề gì?


Cùng mẹ lên gặp 1 ông to, là bạn tù của cha, phụ trách “tổ chức” đ hỏi cho ra nhẽ. Ông ta bảo: “Không có chuyện đó, để tôi kiểm tra lại.  Ngay cả việc đi Sứ sang TQ cũng là do TW và Bác cử”. Tôi cười: “Bác ạ, được hay không được đi nghiên cứu sinh với cháu chả quan trọng. Cháu sẽ làm việc hơn khối người được đi nghiên cứu sinh về”. Chắc mẹ cũng buồn nhưng với tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành kỉ luật của 1 đảng viên, không thấy mẹ tâm sự với ai chuyện này.


Năm 1979 sau vụ cụ Hoàng Văn Hoan bất đồng quan điểm, bỏ đi rồi vụ bác Lý Ban bị “quản thúc” nghe phong thanh có nhiều chuyện không bình thường. Năm 1981, bác Lý mất; sau đó bác gái cùng gia đình  anh Lý Tân Hoa về Quảng Châu. Trước khi đi, anh chị có qua 99 chia tay mẹ tôi. Sau này, người được giao nhiệm vụ “ngoại tuyến” đưa gia đình anh Hoa đi mọi nơi, từng dừng xe trước cửa nhà tôi, kể lại cho tôi chuyện này.


Năm 1983, bác Chu Văn Tấn sau thời gian 4 năm bị  “giam lỏng” đã ốm, mất tại bệnh viện CA Cầu Giấy. Ngày bác đi không ai biết để đi viếng. Sau này nghe anh Hùng “con” (bạn Quế Lâm, cùng làm việc ở Mashino) kể lại: đi đưa vắng lắm; vòng hoa không được ghi tên người mất, người viếng. Sự mất lòng tin trong tôi hình thành.


Năm 1985, nghe tin chú Lê Liêm mất, tôi đưa mẹ đến viếng. Tang lễ tổ chức ở hội trường Đại học VN, đầu Lý Thường Kiệt. Nghe nói “có chỉ thị”: hạn chế cán bộ đương chức đi viếng, ai đến bị “kiểm duyệt” và không cho mang vào vòng hoa với băng tang ghi “tít nhạy cảm”. Nhưng nhiều bạn tù Sơn La trước 1945 của chú chẳng tôn trọng chỉ thị ấy, vẫn mang vòng hoa có dòng chữ “Bạn tù Sơn La kính viếng anh Lê Liêm!”. Còn nhớ nét mặt các chú rất ngạo nghễ, khinh khỉnh.


Bác Giáp - không quên người cộng sự đắc lực về chính trị suốt các chiến dịch từ 1950 cho tới mặt trận Điện Biên Phủ - đã cử cô Hà cùng Hồng Nam, Điện Biên đi viếng. Trong đầu tôi lúc bấy giờ đã nghĩ, thật kì lạ, lúc hoạt động bí mật, gian khổ, tù đày thì quý trọng nhau, còn khi thái bình thì chia bè phái, quay ra “đánh nhau”, đánh cả lúc người ta chết? (Mà lúc đó, chú Lê Liêm đã về Ban Khoa giáo TW, coi như hồi phục và là chuyên viên cao cấp). Cái nhân văn ấy là nhân văn gì?


Cho đến cái ngày 1 ông bạn của cha mất, hỏi mẹ có đi viếng để đưa bà đi thì bà lắc đầu: Cuối đời ông ấy hại nhiều bạn tốt quá. Và, tôi càng giác ngộ hơn. Từ đó, tôi quyết tâm rời quân ngũ, chuyển ra ngoài để  được  sống tự do và được làm tất cả những cái gì mình muốn. Cho đến giờ mới thấy, quyết định đó không sai.


Nhớ ngày tôi và Công ra làm tư nhân, chẳng còn sinh hoạt trong tổ chức nào. Mẹ lúc đầu lo lắng, nhưng sau thấy thực tế cuộc sống có những thay đổi, cụ bảo: Sau này nếu thấy họ “tốt” thì các con sinh hoạt trở lại. (Gi mới thấy, có lẽ chả bao giờ họ “tốt lên” được!).


Ngày bà đi, anh chị em rất thương. Biết bà mang theo những u uất chả nói với ai xuống dưới đó. Và, như 1 trách nhiệm, anh chị em nhà 99; nhất là bác Chiến, Quốc và Trung - những người  làm trực tiếp - quyết tâm làm những gì có  thể  để lấy lại danh dự cho cha, cho mẹ.


Bắt đầu từ tấm Huân chương Hồ Chí Minh… Ngày cha mất, Đảng, Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất. Năm đó là 1967. Ba mươi năm sau, lần sang thăm chú Trần Độ. Nói chuyện huân chương,  chú bảo: “Cha các cháu là đàn anh chú, sao chỉ có Độc lập? Bản thân chú còn được tặng Huân chương Hồ Chí Minh từ năm 1986”. Gặp chú Lê Toàn Thư cũng vậy. Riêng chú Nguyễn Thọ Chân đã trực tiếp viết thư cho Ban Thi đua khen thưởng TW, nói: Anh Bình là bậc tiền bối, cần đánh giá đúng công lao của anh.


Bộ Ngoại giao,  đơn vị cuối cùng của ông, đã làm việc với Ban Thi đua khen thưởng và Viện Huân chương. Đầu năm 2001, Bộ trưởng Trần Di Niên thay mặt Nhà nước trao Huân chương Hồ Chí Minh cho gia đình. Chiều hôm ấy, chú Vũ Thơ, chú Nguyễn Văn Bồng đã cùng gia đình mang tấm huân chương cao quý ra Mai Dịch báo tin vui cho cha mẹ.


Với quan hệ đồng nghiệp, bạn bè, anh Chiến gặp anh Dương Trung Quốc, Tổng thư kí Hội Sử học tìm hiểu thì biết, Hội có tổ chức nghiên cứu, hội thảo về các nhân vật góp công trong lịch sử nước nhà. Việc tổ chức hội thảo cho ông Bình cũng khả thi. (Tuy về kĩ thuật cũng có những tế nhị!). Vậy là từ 2003, chúng tôi bắt đầu tìm gặp bạn bè của cha mẹ, xin ý kiến, lấy tư liệu, bài viết… Và ngày 24/8/2004, Lễ tưởng niệm đồng chí Trần Tử Bình được tổ chức ở Bảo tàng Cách mạng Hà Nội. Nhiều bạn bè của cha mẹ cùng gia đình và đàn em, học trò của ông bà đã đến dự. Ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi thấy lịch sử đã đánh giá đúng về ông. Dưới suối vàng cha mẹ chắc cũng biết điều này!?


Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh (1907-2007) và 40 năm ngày mất  (2967-2007) của ông, cun sách “Trần Tử Bình - từ Phú Riềng đỏ tới mùa Thu Hà Nội…” đã được xuất bản cùng việc khánh thành Nhà tưởng niệm Trần Tử Bình tại Tiêu Động và trường Mẫu giáo Trần Tử Bình tại Phúc Tá. Khách quý đã về dự đông đủ. Bác Giáp gửi thư và cử cô Hà về dự.


Ít năm sau, anh Triết lại thông báo có điều chỉnh, nhất là với lão đồng chí là Xứ ủy viên. Vậy là chúng tôi lại lao vào việc điều chỉnh. Đến cuối năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã kí quyết định truy tặng cho ông Huân chương Sao Vàng.


Riêng trường hợp bà Hưng (từng là bí thư Ban cán sự Hà Nam thay ông Bình ngày bị bắt cuối 1943) khi làm việc với Vụ Thi đua khen thưởng Bộ Công thương về việc điều chỉnh huân chương thì chưa có trả lời. Nhớ ngày “làm” huân chương, bà đã nói với cán bộ thc hin: “Nhà nước thửơng Độc lập hạng Hai cho tôi là chưa đúng tiêu chuẩn. Chú  về  nói  với cp  trên thế. Nhưng thôi, vì nhiều trường hợp các đồng chí còn quên, hãy làm cho họ trước!”.


Với cha mẹ, có bao giờ nghĩ mình đi làm cách mạng để có huân chương này nọ.  Ấy cũng là những điều muốn trao đổi với anh chị em, con, cháu để hiểu hơn về ông bà chúng ta.



2 nhận xét:

  1. Điễu quan trọng nhất đối với thế hệ con,cháu chúng ta là gắng sông xứng đáng với giá trị tin thần vô giá mà cha , mẹ để lại ho chúng ta. KC

    Trả lờiXóa
  2. Điều quan trọng thứ 2 là, không được thù hận, oán ghét ai. Trời lo cả.

    Trả lờiXóa

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.