Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2012

Kỉ niệm với anh

NHỮNG KỶ NIỆM VỚI ANH
Trung tướng Lê Quang Đạo[1] kể
Kiến Quốc ghi

Ngày 19 tháng 3 năm 1998, nghe tin chú Lê Quang Đạo vào thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đến thăm ông. Đã gần 80 tuổi, nhưng ông rất sáng suốt và vui vẻ nhắc lại những kỉ niệm xưa: “…Chú gặp cha cháu lần đầu tiên trong hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ, vào đầu 1943. Lần đó, bác Hoàng Quốc Việt - thường vụ Trung ương kiêm bí thư Xứ uỷ - chủ trì hội nghị ở chùa An Đà, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông. Đây cũng là lần đầu, chú gặp bác Văn Tiến Dũng vừa mới vượt ngục Sơn La, trong vai nhà sư, đầu cạo trọc, mồm luôn tụng kinh. Năm đó chú mới 21 tuổi, còn cha cháu đã 35 và gọi là “ông già” Núi.
Đã nửa thế kỉ trôi qua nhưng chú vẫn nhớ như in hình ảnh cha cháu ngày ấy: một con người lao động, giản dị, trung thực và sống rất tình cảm. Cha cháu là uỷ viên Trung ương duy nhất vốn là dân công giáo toàn tòng…”.
Thật không ngờ đây là lần cuối gặp ông!


1. Lớp học quân chính tại Nho Quan, Ninh Bình

Thời gian về Ninh Bình, tôi được nghe kể lại, anh Bình cùng anh em lăn lộn ở địa bàn Nho Quan, Gia Viễn, cùng bà con đồng cam cộng khổ, lo cho dân từng bát cơm, viên thuốc. Đặc biệt bà con giáo dân khi được anh vận động, giảng giải, họ thấy chính sách của Việt Minh không khác gì những điều đã dạy trong Kinh Thánh. Cũng là thiện, ác, cũng là yêu nước, thương dân. Vậy là quần chúng càng thêm tin yêu cách mạng. Bà con thường gọi anh Bình với những cái tên thân thương “Thầy ký tiêm”,“Ông lang Khói” (chả là vì anh biết cắt thuốc, biết tiêm, thậm chí cả đỡ đẻ) hay “Ông giáo” (vì đã dạy chữ cho dân). Khi phong trào cứu quốc lan rộng, cho dù kẻ địch điên cuồng đàn áp nhưng anh Bình vẫn được quần chúng che chở, đùm bọc.

Trong năm 1943, Xứ uỷ tổ chức lớp bồi dưỡng quân sự, chính trị tại vùng núi Nho Quan (Ninh Bình). Đang là bí thư Thành uỷ Hà Nội, tôi được điều về dự lớp học. Học viên lớp đó có cả các đồng chí Vũ Thơ, Trần Minh Châu, Hà Thị Quế, chị Tân… Chương trình học trong bảy ngày. Đồng chí Hoàng Quốc Việt giảng về nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lê nin, chính sách Mặt trận Việt Minh; còn anh Bình giảng quân sự.

Khi tập điều lệnh đội ngũ, theo quy định, ống quần phải buộc túm lại bằng dây chuối. Đứng nghiêm thì hô: “Lập chính!”[2], khi đi đều “mốt - hai - mốt” thì phải vác gậy gỗ lên vai. (Làm gì có súng thật, toàn dùng gậy gỗ thay súng!). Vì đang tuổi thanh niên, khi tập bắn, cứ mỗi lần giơ “súng” lên là tôi không nhịn được, cười chảy nước mắt(!). Anh Việt và anh Bình cho là thiếu nghiêm túc đã phê bình nghiêm khắc.

Ngay từ thời kì bí mật, Đảng ta đã có chủ trương đấu tranh vũ trang. Lớp học này là một trong những lớp học đầu tiên được Xứ uỷ tổ chức. Với những khái niệm quân sự sơ khởi, sau này chúng tôi đã áp dụng vào thực tế của cuộc đấu tranh cách mạng.



2. Cặp kính lão

Trong lịch sử còn nhiều vấn đề chưa được công bố, trong đó có chuyện gây quỹ cho tổ chức. Quần chúng tốt ở các địa phương đã thông báo cho ta địa chỉ các gia đình cường hào, ác bá. Chúng bóc lột tàn bạo, vơ vét của nhân dân nay cần “phân phối lại”. Sau khi xem xét kĩ, chập tối, các nhóm mang theo dao, gậy, bất ngờ ập vào nhà giàu bắt nộp thóc gạo, tiền bạc. Nếu gặp phải kháng cự thì đánh, đánh xong là rút. Anh Bình giỏi võ, đánh gậy, đánh lưỡng tiết côn[3] rất khá; từng đứng ra tổ chức những vụ này.

Lần đó, không hiểu kiếm đâu được một cặp kính trắng, anh đưa “thượng cấp” Hoàng Quốc Việt. Nhưng anh Việt dùng không hợp, đưa lại cho tôi. Ngày đi học, mắt tôi rất kém, ngồi trong lớp trông xa không được, mượn kính cận của bạn đeo thử thì chỉ thấy chóng mặt. Mãi sau này mới biết là loạn thị. Khi đeo cặp kính này vào đọc sách thấy rõ hẳn. Tôi đeo cặp kính này mãi cho tới năm 1944, khi mật thám Pháp vây bắt ở Hà Nội, thấy động, vội chạy mà không kịp mang theo. Hay đọc sách và viết lách, không có kính dùng, thật là tiếc! Chuyện chiếc kính cũng là một kỷ niệm khó quên!



3. Chết hụt!

Cuối năm 1943, anh Bình bị mật thám Pháp bắt ở Thái Bình. Tháng 3 năm 1945, lợi dụng Nhật hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương, từ đêm 11 tháng 3 đến 16 tháng 3 năm 1945, anh đã cùng gần 100 tù chính trị tổ chức vượt ngục thành công, trở về với phong trào.

Khoảng tháng 6 năm 1945, tôi gặp lại anh ở Hà Nội. Ngày đó anh lấy bí danh là Đồi. Trên đường đi họp Xứ uỷ, qua Hà Nội thì trời đổ tối. Hai anh em rủ nhau vào nghỉ ở một nhà trọ có quán cơm bình dân cho người lao động, ngay trước cửa ga Hàng Cỏ. Đêm đang ngủ, anh chợt thức giấc, đập vào vai tôi:

- Mai chịu khó đi sớm khi trời còn tối đất, chứ để đến sáng mới đi, nhỡ máy bay Mỹ ném bom thì chết oan!

- Vâng, anh dậy sớm thì cứ đánh thức tôi…- Tôi ngái ngủ trả lời.

Thời kì này, máy bay Mỹ - dưới sắc cờ “đồng minh” - thường ném bom các thành phố có quân Nhật chiếm đóng. Sớm hôm sau, khi còn chưa rõ mặt người, hai anh em đã khăn gói lên đường. Tôi còn trẻ, đang tuổi ăn tuổi ngủ phải dậy sớm nên cứ ngáp ngắn ngáp dài. Hai anh em đi bộ đến Văn Điển, thì trời sáng bạch mặt. Nhìn trên trời thấy máy bay Mỹ ù ù bay về phía Hà Nội.

Mấy hôm sau, khi quay lại Hà Nội, đi ngang qua cửa ga Hàng Cỏ thì thấy ngay tại nhà trọ hôm ấy là một hố bom sâu hoắm. Hú vía, suýt chết, nếu lần đó không đi cùng anh! Chính nhờ ý thức kỷ luật và kinh nghiệm hoạt động bí mật của anh Bình mà hai anh em thoát chết, tiếp tục hoạt động cho đến tận bây giờ…

Tháng 7-2002, Tp. Hồ Chí Minh

K.Q

 


[1] Đồng chí Lê Quang Đạo (1921-1999), nguyên Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Chủ tịch Quốc hội.
[2] “Lập chính” – từ Hán-Việt, nghĩa là “Nghiêm!”.
[3] Côn hai khúc, được nối với nhau bằng một sợi dây.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.